Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

GHI CHÉP CHỦ ĐỘNG ĐỂ HỌC TỐT HƠN




Ghi chép là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình thu nhận kiến thức. Ghi chép là cách tốt nhất để biến thông tin thành một phần kiến thức của bạn.

Thông thường, bạn ghi chép từ hai nguồn thông tin, một là từ các bài giảng trên lớp, hai là từ tài liệu học. Dù bạn ghi chép từ nguồn thông tin nào thì cũng nên chủ động tạo ra thứ gì đó của riêng mình và ngay lập tức áp dụng vào việc học. Ghi chép chủ động sẽ giúp bạn hiểu và gợi nhớ kiến thức một cách nhanh chóng. Dưới đây, là một số hướng dẫn giúp bạn ghi chép hiệu quả để phục vụ tốt cho việc học.



Ghi chép chủ động để học tốt hơn 1
1. Phân biệt giữa ghi chép và ghi chú
     
Bạn cần phân biệt rõ ràng giữa ghi chép và ghi chú.

“Ghi chú” là một hoạt động bị động. Bạn đơn thuần chỉ ghi lại dữ liệu để học sau và việc học tập bị trì hoãn. “Ghi chép” là cách bạn chủ động tạo ra kiến thức của riêng mình và ngay lập tức áp dụng vào việc học. Bạn cần suy nghĩ về lời giảng và tài liệu trước khi ghi lại bất cứ điều gì, đó chính là kiến thức do bạn tạo ra chứ không đơn thuần là chép lại một đoạn văn. Bạn hãy cố gắng sử dụng lời văn của mình để viết lại một cách cô đọng. Cách tốt nhất là bạn hãy tự nghĩ ra để vẽ những biểu đồ hoặc đồ thị đơn giản. Hãy sử dụng những từ khóa để các ghi chép dễ nhớ.

2. Ghi những điều có giá trị
Ghi chép chủ động để học tốt hơn 2

Bạn chỉ nên ghi lại những thông tin có giá trị, đây chính là cách ghi chép chủ động. Bạn cần quyết định điều gì có giá trị để ghi lại, đừng cố ghi lại nguyên văn từng bài giảng, bạn phải học cách lờ đi những thứ không cần thiết. Nếu bạn không phải là thiên tài thì đừng ép bộ óc làm việc quá sức. Bạn đến lớp để học tập và ghi lại những ý tưởng và sự kiện quan trọng, không phải mọi thứ đều có giá trị. Bạn nên chọn lọc để viết và cố gắng sử dụng càng nhiều từ khóa càng tốt.

3. Không cần đẹp nhưng phải thật rõ ràng
     
Bạn không cần phải viết ngay ngắn, sạch đẹp. Thậm chí, bạn không cần viết đúng ngữ pháp và chính tả. Điểm quan trọng đó là, bạn phải viết thật rõ ràng và dễ hiểu. Bạn cần sắp xếp thông tin một cách có tổ chức để đảm bảo rằng bạn có thể hiểu ngay mỗi khi ôn lại, chú trọng quá nhiều vào hình thức sẽ khiến bạn mất tập trung, đồng thời làm chậm tốc độ nghe giảng.

Bạn nên chừa nhiều khoảng trống trong vở ghi chép để điền thêm những gì bạn quên trong giờ học hoặc những ý tưởng mới. Bạn sẽ phải ôn lại những thông tin đã ghi chép nhiều lần trước kì thi vì vậy hãy chừa lại nhiều khoảng trống hơn mức bạn cần để bổ sung những thứ cần thiết.

4. Sử dụng hình ảnh
Ghi chép chủ động để học tốt hơn 3
     
Hãy kích thích trí thông minh và khả năng ghi nhớ của bạn bằng hình ảnh, biểu đồ, đồ thị có giá trị hơn những con số khô khan, hình ảnh sinh động sẽ dễ nhớ hơn hẳn những trang viết dày đặc chữ. Bạn nên ghi lại những hình ảnh bổ sung cho lời nói và chữ viết, tổng hợp những từ khóa, ý chính, chi tiết quan trọng, hình ảnh thành một hệ thống. Nếu cần thiết, bạn hãy sử dụng màu sắc để hỗ trợ, màu sắc có khả năng tác động trực tiếp vào thị giác giúp bạn tiếp thu thông tin hiệu quả và gợi nhớ một cách chính xác khi cần thiết.

5. Củng cố kiến thức

Bạn cần thường xuyên đọc lại những ghi chép để củng cố kiến thức, ôn tập lại những bản ghi chép cũ trước khi bắt đầu ghi chép những thông tin mới. Việc này không mất nhiều thời gian, nhưng bạn cần phải làm, đó là một cách thức rất đơn giản nhưng mang lại hiệu quả cao cho việc ghi chép có hệ thống, nhằm củng cố thông tin trong trí nhớ về vấn đề mà bạn đang tìm hiểu.

Trên đây là một số hướng dẫn giúp bạn ghi chép hiệu quả để phục vụ tốt cho việc học, phương pháp tốt nhất để khắc sâu kiến thức chính là ghi chép chủ động từ các nguồn thông tin. Bạn hãy tập cho mình thói quen ghi chép mỗi khi tiếp nhận kiến thức mới. Bạn có thể mang bên mình một cuốn sổ nhỏ và một cây bút để ghi chép những ý tưởng hay, những thông tin thú vị mà bạn tìm được. Sau một thời gian tích lũy, chắc chắn khối lượng kiến thức của bạn sẽ tăng lên đáng kể.

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ AUDIO

Vài khái niệm cơ bản về Audio



Trong lĩnh vực audio có 2 mang kỹ thuật quan trọng là ghi và phát lại âm thanh. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ đề cập đến các khái niệm đơn giản và căn bản nhất của kỹ thuật ghi và tái tạo âm thanh phổ thông. Trên cơ sở đó rút ra những đánh giá chất lượng, giải pháp ghi và tái tạo âm thanh phục vụ giải trí.
QUÁ TRÌNH GHI ÂM

Để ghi cần có nguồn âm, thiết bị chuyển tải, xử lý, ghi tín hiệu và định dạng đích cho tín hiệu âm thanh cần ghi. Thời xưa, định dạng đích thường là tín hiệu analog (dạng tương tự), ghi bằng cách tạo rãnh (vật lý) trên đĩa nhựa. Với phương pháp này, người ta điều khiển độ nông sâu của rãnh theo dạng sóng âm cần ghi, kết quả là trên đĩa có rãnh mô phỏng dạng sóng âm. Kỹ thuật ghi kế tiếp sử dụng băng từ, nguyên tắc thu với định dạng analog thì vẫn như đĩa vinyl, chỉ khác là sóng âm được mô phỏng lại trên cassette bởi mức độ từ hóa thay đổi trên bề mặt băng từ. Hai kiểu ghi trực tiếp dạng này gọi là kỹ thuật tương tự, vì dạng sóng âm và tín hiệu ghi tương tự nhau.
Cùng với sự phát triển của công nghệ điện tử, việc ghi âm hiện nay không thực hiện với định dạng tương tự, mà sử dụng tín hiệu số (digital). Nôm na là mỗi tần số âm thanh tương tự được mã hóa thành một dãy số và ghi vào đĩa CD. Nhưng để mã hóa được toàn bộ dải sóug âm thanh liên tục thì số lượng ký tự cần dùng không có giới hạn. Vì vậy, người ta không mã hóa và ghi lại toàn dải sóng âm, mà chỉ ghi các giá trị tương tự, cách đều, đủ gần trên trục thời gian. Các điểm tín hiệu âm thanh tương tự được mã hóa và ghi lại gọi là điểm trích mẫu. Thiết bị mã hóa chỗi tín hiệu âm thanh tương tự thành dãy số được gọi là Analog to Digital Converter (viết tắt là ADC).

QUÁ TRÌNH TÁI TẠO ÂM THANH

Máy hát cổ chỉ cần có một màng rung gắn với một kim lướt tỳ nhẹ vào rãnh âm trên đĩa nhựa, màng sẽ rung theo độ nông sâu của rãnh. Băng từ thì cần được tỳ và kéo chạy qua khe hẹp của lõi sắt từ (đầu từ), khi đó cuộn dây cuốn trên lõi sẽ xuất hiện sức điện động theo dạng tín hiệu tương tự ghi trên băng. Trong cả 2 trường hợp nêu trên, chỉ còn cần một thiết bị khuếch đại tín hiệu âm thanh vừa được tái tạo lên mức âm lượng phù hợp với nhu cầu và phát ra loa để người nghe thưởng thức.
Còn với đĩa CD thì đầu đọc sẽ tải toàn bộ dữ liệu âm thanh kỹ thuật số vào một bộ nhớ tạm để có thể giải mã tuần tự từng dãy số (chứa thông tin mã hóa các tín hiệu âm thanh tương tự) đạt tốc độ phù hợp. Trong quy trình này, các chuỗi tín hiệu mã hóa từ CD vừa lưu vào bộ nhớ tạm được”đánh thức”bởi đầu đọc quang học và chuyển đến ngõ vào của thiết bị giải mã dữ liệu số ra tín hiệu tương tự gọi là Digital to Analog Converter (DAC). Tại ngõ ra của DAC xuất hiện tín hiệu âm thanh tương tự vào thời điểm trích mẫu tương ứng lúc ghi. Phần công việc còn lại cũng thuộc về bộ khuếch đại và các loa.

Câu hỏi đặt ra là, với giải pháp trích mẫu ghi gián đoạn về thời gian, khi tái hiện lại, liệu tín hiệu âm thanh có bị “lập bập”? Câu trả lời là không. Lý do là cơ cấu rung cơ khí (loa) có quán tính đủ lớn để khi điểm trích mẫu đủ dày thì loa cũng rung như ghi liên tục. Vả lại, tai người cũng không phát hiện ra các thay đổi quá nhỏ của sóng âm, khi thiết bị tái tạo âm thanh không thể hiện các tần số trung gian mà tới ngay điểm trích mẫu liền kề.
Hiện tượng này cũng giống như khi ta xem tivi hay phim nhựa, thực chất là chúng ta được xem một chuỗi ảnh tĩnh chụp liên tiếp với tốc độ hiển thị 24 hình trong 1 giây.

NGUỒN ÂM

Kênh âm thanh là dãy các tín hiệu âm lúc ghi để có thể phát lại theo đúng dãy của nó. Dựa vào đó người ta phân loại các nguồn âm.
Với loại nguồn âm mono, tín hiệu chỉ được ghi vào một kênh, bất kể điểm phát ra nó xa hay gần, ở phía trái hay phải đầu thu.

Với loại stereo, âm thanh được ghi vào 2 kênh, trái và phải. Giải pháp này cho phép tái hiện một cách tương đối vị trí của các điểm phát âm trong lúc ghi, vì khi phát lại người ta dùng 2 hệ tái tạo âm thanh trên 2 kênh. Từ stereo có nghĩa gốc là hình cầu, tuy nhiên hệ này chỉ thể hiện được vị trí phải và trái của không gian trình diễn. Cách ghi này không đạt yêu cầu thể hiện âm hình trong phim, vì ngoài các vị trí phải, trái, âm hình còn phải đi theo lô-gíc tiền và hậu cảnh hoặc mô phỏng được tổ hợp phải trước – trái sau… Do vậy, với các phim hiện đại, người ta không ghi âm kiểu stereo mà ghi nhiều kênh hơn. Một số đĩa phim nổi tiếng được thu âm đa kênh, nếu khi xem vẫn chỉ thấy 2 kênh là vì hệ đọc không phù hợp hoặc các trung tâm sao chép hay lồng tiếng đã làm hỏng âm gốc.
NGUỒN 5.1 HOẶC 7.1


Đó là cách gọi tên các hệ đa kênh. Con số trước dấu chấm là số kênh độc lập thực sự được ghi, còn số sau dấu chấm là kênh phụ được tạo ra bởi thiết bị đọc đĩa, nó tổng hợp các thành phần trăm những kênh được ghi kia để xuất ra đường riêng cho loa siêu trầm. Ghi âm đa kênh là công nghệ rất tốn kém vì thiết bị thu phức tạp hơn, đòi hỏi kỹ thuật phối âm khó hơn, biên tập các mẫu âm để xuất ra sản phẩm cuối phải có nghề hơn. Cũng vì vậy, các nhà sản xuất ít vốn, trình độ kỹ thuật thấp thường không đủ điều kiện tham gia cuộc chơi đa kênh.
Về ngữ nghĩa, 2 kênh cũng đã có thể hiểu là đa kênh. Nhưng nếu dùng như thuật ngữ trong ngành audio thì chúng khác hẳn nhau. Để sản xuất cassette stereo thì đơn giản, đầu ghi có 2 khe để ghi 2 kênh, đầu đọc cũng có 2 khe để đọc 2 kênh. Nhưng thưởng thức âm nhạc với thiết bị này khá vất vả. Ai đã chơi máy cassette stereo tất sẽ gặp tình huống kênh này đọc tốt nhưng kênh kia lại kém. Cân chỉnh cho được cả 2 kênh thì sau một thời gian đầu từ mòn không đều,phải chỉnh lại hoặc thay mới, cứ thế tiếp diễn. Đó là chưa kể cái nạn bột sắt từ của băng làm bẩn đầu đọc, thỉnh thoảng lại phải lau bằng cồn. Mới 2 kênh mà đã thế thì 5 hay 7 kênh sẻ là “đại họa”.

Với đĩa đa kênh thì khác, người ta không thể tạo ra 5 hay 7 rãnh trên đĩa để ghi đồng thời các kênh được, làm thế cơ cấu máy ghi /đọc sẽ rất phức tạp. Do vậy, người ta dùng phương pháp dồn kênh (multiplex) để ghi mọi kênh vào cùng một rãnh theo một trật tự nhất quán được xác định từ trước. Kênh số 1 trước, tiếp đến kênh 2, 3… ghi xong kênh cuối lại vòng lại chu kỳ đó. Khi đọc đĩa người ta dùng phương pháp tách kênh (demultiplex) để nhặt ra tín hiệu của kênh nào thì đặt vào bộ giải mã của kênh đó (với tốc độ cao).

MỘT SỐ CỤM TỪ THƯỜNG GẶP TRÊN BÀN GHI ÂM

DTS viết tắt của cụm từ Digital Theatre Sound – âm thanh kỹ thuật số kiểu rạp hát. Xuất xứ của thuật ngữ âm thanh rạp hát là ở các nước phát triển, nơi mà các nhà hát được thiết kế hết sức cầu kỳ, chuyên phục vụ biểu diễn âm nhạc đỉnh cao với kiến trúc nội thất và trang âm tạo được cảm giác 3 chiều rõ nét. Để mô phỏng được cách thưởng âm như vậy tại phòng nghe cá nhân người ta ghi đa kênh bằng kỹ thuật số.
Dolby Digital xuất xứ từ trên của một phòng thí nghiệm, cơ sở này vừa kinh doanh vừa nghiên cứu và phát triển kỹ thuật lọc nhiễu âm. Những sản phẩm đầu tiên của họ dùng để lọc xì cho các hệ băng từ có nhiễu nền do tính chất không thật mịn của các hạt bột sắt từ trên băng. Sau này hãng phát triển kỹ thuật lọc nhiễu khi ghi đĩa kỹ thuật số và trở thành Dolby Digital. Một đĩa DVD có nhãn này tức là nhà sản xuất đã sử dụng bộ khử nhiễu Dolby khi ghi đĩa.

Từ Dolby có thể ghép với thuật ngữ khác, ví dụ Dolby Stereo hay Dolby Surround Sound, trong đó Dolby vẫn luôn có nghĩa là lọc nhiễu lúc ghi, và từ ghép còn lại chỉ ra tính chất của hệ thu âm.

Surround Sound có nghĩa là lúc ghi nhà sản xuất đã dùng kỹ thuật điện tử để tạo cảm giác âm thanh vòng. Theo đó, một âm đơn kéo dài có thể “chạy” từ kênh nọ sang kênh kia, luân phiên trong hệ đa kênh, tạo cảm giác vật phát âm chuyển động (mặc dù vật đó đứng im và người ta cũng chỉ dùng 1 micro để ghi đơn âm đó). Thực tế ta dễ nhận thấy hiệu ứng này trong phim, khi một chiếc xe chạy từ xa lại gần và lướt qua màn ảnh thì tiếng rú máy của nó cũng di chuyển từ sau ra trước và lướt ngang rạp chiếu phim. Kỹ thuật âm vòng thường trong hệ đa kênh thì từ “vòng” mới có ý nghĩa về không gian. Muốn tạo hiệu ứng này, với hệ mono thì “bất khả”, còn stereo thì chỉ mô phỏng sự dịch chuyển “qua – lại” chứ không tạo thành vòng 3 chiểu được.

Cũng cần nói thêm, kỹ thuật số tạo âm thanh vòng ám chỉ là giải pháp tiết kiệm khi sản xuất đĩa 5.1, trong đó người ta giảm bớt số kênh phải ghi độc lập (phức tạp và tốn kém) mà vẫn tạo được cảm giác động, 3 chiều của âm thanh. Loại đĩa ghi với kỹ thuật đó, nếu đề nhãn 5.1 tức là thiếu trung thực. Với các phim hoặc album ca nhạc có kinh phí sản xuất lớn của các hãng thu âm uy tín, người ta ghi đĩa 5.1 với các kênh hoàn toàn độc lập.

 http://thuanloipho.com/index.php?mod=forum_detail&topic_id=1821

CÁC BỘ PHẬN BÊN TRONG LOA HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO

Các bộ phận bên trong loa hoạt động như thế nào


Các bộ phận cấu thành nên một hệ thống loa đều phải được lựa chọn cẩn thận sao cho đạt được chất âm hiệu quả nhất. Có 6 thành phần chính tạo nên một chiếc loa.
Driver
Đây là trái tim và cũng là linh hồn của bất kỳ hệ thống loa nào. Về cơ bản, driver của loa chuyển tín hiệu điện thành sóng âm thanh, thông qua chuyển động màng loa. Driver có thể sắp xếp thành 4 dạng khác nhau dựa trên vai trò nó đảm nhiệm trong toàn dải âm thanh.
Loa tần số cao (HF) hay còn gọi là loa tweeter
Loa trung
Loa tần số thấp (LF) hay còn gọi là loa trầm (woofer)
Loa tần số cao còn gọi là tweeter hay loa HF (High-frequency). Chúng biểu thị những âm cao, sắc của nhạc cụ và những hiệu ứng kiểu như kính vỡ. Loa thường có kích cỡ khoảng 1 inch và làm bằng các vật liệu như lụa, titanium hay các dạng sợi tổng hợp khác nhau.
Loa trung phụ trách dải âm thoại và các âm tai nghe dễ thấy nhất. Kích cỡ nằm trong khoảng giữa loa tweeter và woofer, tất nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ. Vật liệu làm màng loa tùy thuộc vào sở thích của nhà sản xuất và thường rất đa dạng, từ dạng giấy rẻ tiền cho đến dạng gỗ bu-lô đắt tiền.
Loa tần số thấp còn gọi là các loa siêu trầm (woofer), phụ trách tần số thấp hơn tần số trên loa trung, tạo những tiếng trống rền trong album nhạc rock hay các âm trầm hùng trong các phim hành động. Khả năng tái hiện độ sâu của loa đôi khi phụ thuộc vào kích cỡ nón loa và lượng không khí mà nó tác động.
Loa toàn dải chủ yếu phụ trách phần âm cao và âm trung. Chúng thường thấy trong các loa con của những bộ rạp tại gia gọn nhẹ và đi kèm một loa siêu trầm để tái hiện dải âm thanh đầy đủ.
Sự kết hợp các driver khác nhau quyết định thiết kế của loa. Loa hai đường tiếng thường gồm một driver tweeter và một mid-range có chức năng kích bass, trong khi các loa ba đường tiếng thường có đủ cả 3 driver. Thiết kế này áp dụng cho tất cả các loa, dù là một hay một nhóm các loa cùng dải kết hợp.
Lỗ dội âm (Bass reflex)
Nhằm giải quyết vấn đề "thắt cổ chai" của các thùng loa và màng loa nhỏ, các nhà sản xuất thường cho thêm một lỗ dội âm để làm tăng thêm khả năng tái hiện tần số thấp. Lỗ này có thể được bố trí ở phía trước hoặc sau và được thiết kế dưới dạng lỗ đơn hay đôi.
Thùng loa
Thùng loa hay hộp loa là nơi chứa toàn bộ các thành phần của một hệ thống loa. Cấu trúc của nó, mà cụ thể là khoảng không gian bên trong, có tầm quan trọng không nhỏ tới hoạt động của loa. Các loa đứng và book-shelf loại to, thường tái hiện chất âm tốt hơn với âm trầm sâu hơn nhờ vào khoảng không gian bên trong đủ lớn. Bên cạnh yếu tố kích thước, vật liệu chế tạo cũng như độ dày của thùng cũng tác động không nhỏ tới chất lượng âm thanh.
Hầu hết các mẫu cao cấp đều làm bằng gỗ với thành rất dày và đặc, sao cho giảm thiểu rung tốt nhất. Các loại gỗ ép MDF cũng hay lựa chọn cho loa tầm trung, trong khi gỗ ép thường hay được dùng cho các loa rẻ tiền hơn.
Giắc nối dây
Thông thường giắc này không hiện diện trên các loa rẻ tiền vốn đã được gắn sẵn cáp ở bên trong. Tuy nhiên, để kết nối có chất lượng hơn, loa phải có giắc nối dây riêng rẽ để có thể nâng cấp lên dây loa đẳng cấp hơn.
Một trong các bước cải tiến của loa là các vị trí kết nối có khả năng nối dây thường hay giây có đầu riêng. Cầu kỳ hơn nữa là các kiểu đầu bi-wire hay thậm chí mà tri-wire. Các kiểu kết nối này vốn được dùng cho những ampli được thiết kế riêng biệt.
Mạch phân tần
Về cơ bản, đây là một bộ phận tách các kênh thành các dải âm thanh khác nhau cho từng loa tương ứng, ví dụ, tần số thấp cho loa bass và cao cho tweeter.
Lý tưởng mà nói, các tín hiệu phải được chia tách sao cho dải âm không bị trống hay chồng lên nhau. Tuy nhiên, trong thực tế điều này khó xảy ra nên mới dẫn tới những trường hợp nhiều bass hoặc đột nhiên hổng một dải âm nào đó.
Phụ kiện
Có rất nhiều phụ kiện phụ trợ cho hệ thống loa, từ cổ điển là các đinh hay chân đế, tới các thiết bị giá đỡ treo tường. Các phụ kiện phụ trợ này cũng cần phải được lựa chọn thận trọng, bởi lẽ, nếu không chọn đúng chất lượng toàn bộ hệ thống, âm thanh sẽ bị hỏng chỉ vì chân đế không đủ vững khiến cho loa bị rung trong khi đang hoạt động.

http://thuanloipho.com/index.php?mod=forum_detail&topic_id=1821

LỊCH SỬ ĐĨA VINYL

Lịch sử đĩa Vinyl



Trong khi thế giới kỹ thuật số đang phát triển mạnh mẽ thì vinyl LP vẫn tiếp tục được sưu tầm cùng với mức sản xuất ổn định, có lẽ chính nhờ vào chất âm analog tự nhiên, ấm áp của chúng. Vậy, làm thế nào LP có thể đạt đến những chất âm độc đáo đến thế!

Đĩa Viny LP
Năm 1877, Thomas Edison được xem là người phát minh ra máy quay đĩa, thiết bị đầu tiên vừa có thể thu âm và phát lại âm thanh. Thiết bị này ghi lại thanh âm một cách trực tiếp khi các vết lõm trên tờ giấy bạc bọc quanh một trục lăn có rãnh, cái mà sau đó được phát lại bằng cách quay trục lăn, theo chuyển động của đầu kim dọc theo các đường rãnh ấy, làm rung động màng ngăn cơ học tương ứng và tái tạo âm thanh. Đến những năm 1880, Volta đã phát minh ra một wax-coated cardboard cylinder sử dụng rung động của kim máy hát, giống như một máy đo địa chấn, được gọi là phương pháp “hill-and-dale “, giống như của Edison. Mãi cho đến đầu thế kỷ 20, cylinder cuối cùng cũng được thay thế bằng các bản ghi đĩa phẳng mà ngày nay chúng ta sử dụng. Nhưng thậm chí sau đó, âm thanh được ghi trực tiếp vào đĩa một cách máy móc. Những bản thu âm “acoustical” như thế này dựa vào một thiết bị âm thanh lớn kết nối với kim máy hát. Khi các sóng âm gây ra rung độngs ẽ làm kim rung động, và đưa những rung động ấy vào đĩa hand-cranked.
Vấn đề nằm ở chỗ biên độ của các nốt trầm (nốt bass) lại cao gấp nhiều lần so với các nốt có dải âm cao hơn, âm thanh với tầng số thấp hơn lại chiếm nhiều khoảng cách vật lý trong mỗi đoạn, khi đó, những dải âm cao và trung sẽ bị mất đi trong khi phát. Điều này khiến cho âm phát bị méo cũng như âm bass nặng. Mãi cho đến năm 1925, các ngõ vào âm thanh đã được chạy qua một vi mạch và amp để tăng phạm vi hoạt động cũng như âm lượng mà không cần phụ thuộc vào các thuộc tính vật lý của thiết bị âm thanh, và thời đại của các bản ghi “electrical” đã bắt đầu. Những bản thu này được điều chỉnh một cách chủ định những dải âm cao cùng những âm bass thấp, giúp âm thanh cân bằng trong suốt quá trình phát. 78s –các đĩa thu với vận tốc quay 78 RPM- được xem như một bước nhảy vọt về công nghệ so với những máy quay tay tiền nhiệm.

Máy hát đĩa
“Đây chính là thời điểm cho những đánh giá âm nhạc một cách nghiêm túc để tạo ra các buổi trình diễn âm nhạc tuyệt vời bằng các phương tiện của các đĩa thu. Có thể nói rằng, các đĩa thu đã thành công trong việc tái tạo một cách chính xác và đầy đủ tất cả các chi tiết của buổi biểu diễn nhạc giao hưởng hay opera. Electrical recording và reproduction đã kết hợp để duy trì sức sống và màu sắc trong các buổi biểu diễn độc tấu.”- Per Compton Pakenham của tờ The New York Times năm 1930
Và chất lượng chỉ được nâng cao trong những năm 1950 với sự ra mắt của những đĩa nhạc 33 RPM, vào khoảng 25 phút mỗi mặt, và dải âm có thể dễ dàng chỉnh sửa cũng như tối ưu hóa âm thanh trong việc sản xuất, sau đó được lồng vào một master-disc. Master-disc này được biết đến như một đĩa laquer hay đĩa acetate. Thật ra, acetate lại là một sự nhầm tên khi đó là các đĩa laquer được phủ lên chất cellulose nitrate. Và không giống như đa số các đĩa vinyl được đúc nên, master-disc được cắt “một cách thủ công”, các đường rãnh trên bề mặt đĩa được tạo ra bằng một đầu kim máy cắt đĩa với nhhững chuyển động cơ học được điều khiển bởi một ngõ vào âm thanh. Các rãnh được kiểm tra thường xuyên trong suốt quá trình cắt để đảm bảo độ sâu thích hợp của đường cắt cũng như điều chỉnh âm lượng và cường độ phát. Sau khi âm thanh đã được sao chép và kiểm tra chất lượng phát lại thì laquer sẽ được gửi đến công ty sản xuất.

Vẻ đẹp về hình thể và chất âm của Vinyl
Laquer quá cứng để dùng trong quá trình sản xuất thực tế, đo đó, một mẫu đúc kim loại đã được thực hiện. Ban đầu, laquer được phủ một lớp graphite dẫn điện tốt, sau đó được mạ bạc hoặc niken. Khi đĩa đã đủ dày, sáp sẽ được lấy đi, để lại một khuôn kim loại chắc chắn hơn. Những kỹ thuật hiện đại đòi hỏi phải nhúng đĩa vào dung dịch hòa tan stannous chloride và sau đó phun vào một lớp nguyên tử bạc. Những tấm mạ với kỹ thuật thông thường vẫn được sử dụng rộng rãi nhưng không đạt được độ vang âm chính xác.
Sau khi lớp mạ bạc ban đầu đã cứng, một lớp đồng mịn được phủ lên, sau đó là một lớp kim loại mạnh hơn, thô hơn, như thép. Lớp kim loại mịn, bao gồm những nguyên tử kim loại tương đối nhỏ, 85 hạt/inch2 với độ phóng đại 100 lần đường kính, và tính năng cải thiện sức mạnh cũng như độ dẻo dai hơn các hạt thép thô, dễ dàng gia công trên máy hơn. Khi lượng kim loại đã đủ để hỗ trợ các tấm bạc, laquer được đập khuôn, để lại cực âm kim loại hay còn gọi là “khuôn cối”.
Khuôn cối vẫn khá cứng vì thế nó cần phải được đúc lại một lần nữa trước khi bắt đầu nén nhựa vinyl. Đĩa kim loại được xem như “người mẹ”, được cắt từ khuôn cối rồi mạ lại để tạo nên một bản âm khác được gọi là “stamper”.

Bộ sưu tập đĩa Vinyl
Mỗi stamper được gắn liền với một máy nén thủy lực 100 tấn, về cơ bản giống như một chiếc khuôn và có thể sản xuất hàng ngàn chiếc đĩa trước khi cần thay thế. Mỗi lá vinyl nóng chỉ khoảng ½ diện tích nhưng lại dày gấp 3 lần một đĩa thành phẩm, được gọi là biscuit, trượt giữa hai hàm máy nén, và hơi nước 300oF được sử dụng làm mềm vật liệu trước khi kết thúc, và nén vinyl nóng vào hình dạng cuối cùng trong khi ghi âm. Sau đó, đĩa nhạc được làm nguội bằng nước, trở nên cứng lại, và được dán nhãn, tất cả các khâu ấy đều được thực hiện một cách tự động.

Cách đóng gói của đĩa Vinyl
Tiếp theo, các đĩa nhạc được cắt góc theo một vòng tròn gọn gàng bằng máy xén tự động, sau đó, đĩa nhạc được kiểm tra cẩn thận, cả về trực quan lẫn âm học.
Cuối cùng, các LP chất lượng được đóng gói và vận chuyển đến các cửa hàng bán lẻ âm nhạc độc lập tại các địa phương.

http://thuanloipho.com/index.php?mod=forum_detail&topic_id=1821

NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ ÂM THANH HIFI

Với nhu cầu sống ngày càng tăng mạnh mẽ như hiện nay thì nhu cầu sắm 1 dàn nghe nhìn trong nhà là điều diễn ra thường ngày. Nhưng nếu không biết gì về kiến thức audio liệu rằng mình có thể "tậu" được 1 dàn sản phẩm ưng ý và hợp túi tiền? . Hãy cùng Tapchiaudio lướt qua vài kiến thức cơ bản của Hifi nhé.
Thưởng thức và tìm hiểu âm thanh tạo ra bởi bộ dàn hi-fi là mối quan tâm và niềm đam mê của các bạn nghe nhạc. Để đánh giá bộ dàn được chính xác, chúng ta cần có những khái niệm về chất lượng âm thanh. Sau đây là một số tiêu chí đánh giá về âm thanh hay được dùng khi đánh giá chất lượng bộ dàn hi-fi.
Âm sắc: Nói một cách đơn giản, âm sắc dùng để chỉ “màu sắc” của âm thanh. Mọi người thường nói, giọng ca này thật ấm áp, giọng nói kia quá mỏng… Tất cả nhằm ám chỉ sắc màu của thanh âm. Âm thanh cũng giống như ánh sáng, nó có màu sắc, song chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt, mà cảm nhận bằng đôi tai. Thông thường, âm sắc càng ấm áp, âm thanh càng trở nên mềm mại, dịu ngọt hơn; âm sắc càng lạnh lẽo, âm thanh càng trở nên khô cứng.


Âm sắc là nhân tố căn bản để chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau giữa các nhạc cụ hay giọng người. Nghe một nốt nhạc ta có thể phân biệt nó được tạo ra bởi đàn guitare, piano hay violin… đó chính là nhờ âm sắc của mỗi nhạc cụ khác nhau. Xét trên góc độ vật lý, âm sắc của mỗi nhạc cụ hoặc giọng hát phụ thuộc vào cấu trúc và thành phần các hài âm (Harmonic). Âm sắc tái tạo đúng giúp người nghe cảm nhận chính xác được âm thanh của từng nhạc cụ, làm cho âm nhạc trở nên tự nhiên hơn, quyến rũ hơn.
Điều này cũng tương tự trong thế giới thiết bị Hi-fi. Bạn có thể nói rằng, dàn máy này nghe ấm áp, ngọt ngào, dàn máy kia tiếng tối, khó… Tuy mỗi người cảm nhận âm sắc không hoàn toàn giống nhau, song về cơ bản không thể nói rằng nóng là lạnh. Đó chính là sự thống nhất chung của chúng ta về âm sắc.

Tầng âm và trường âm: Tầng âm (sound stage) và trường âm (sound field) là hai khái niệm dễ nhầm lẫn và khó có sự phân biệt rạch ròi. Nói một cách đơn giản, trường âm là độ rộng của không gian âm thanh và tầng âm là tầng lớp được tạo ra bởi một nhóm các nhạc cụ trong một sự sắp xếp nào đó trong không gian theo chiều sâu (trên sân khấu hay trong phòng thu). Trường âm cho ta cảm giác về độ vang, độ rộng hẹp và kết cấu kiến trúc của phòng hoà nhạc. Trong khi đó, tầng âm cho ta cảm giác các nhạc cụ trong dàn nhạc được bố trí như thế nào, các nhạc công ngồi ai trước ai sau trong không gian… Tầng âm và trường âm là hai yếu tố quyết định rất lớn tính hiện thực và độ hiện diện của âm thanh.
Do âm thanh tái tạo trong phòng nghe của bạn bị ảnh hưởng rất lớn bởi sự không đều trong đáp tuyến tần số của các thiết bị khuyếch đại, cũng như đặc tính âm học của phòng nghe và vị trí đặt loa… nên tầng âm và trường âm cũng rất đa dạng. Cùng một bộ dàn với những thiết bị giống hệt nhau nhưng được bố trí ở hai phòng khác nhau về kích thước, về vị trí đặt loa, về bố trí đồ đạc… sẽ tạo những tầng âm và trường âm rất khác nhau và hiệu quả, xúc cảm khi thưởng thức âm nhạc cũng rất khác nhau. Tất nhiên, hoàn hảo nhất là tầng âm phải giống như nguyên mẫu của bản ghi âm gốc. Tầng âm và trường âm được tái hiện tốt, bạn sẽ có cảm giác như có thể “chạm tay” vào người ca sĩ hay người nhạc công đang trình diễn.

Mật độ hay sự chặt chẽ của âm thanh: Mật độ còn được gọi là độ đậm đặc, bạn hãy hình dung nó giống như một gram xốp và một gram chì. Cùng một trọng lượng nhưng mật độ vật chất của một gram chì cao hơn nhiều. Vậy “mật độ âm thanh” được cảm thấy như thế nào? Đó chính là sự chặt chẽ trong tiếng cello khi chơi ở phần trầm, ta cảm nhận được độ dính của archet và dòng chảy của sợi dây đàn, hoặc sự đầy dặn đầy ấp tiếng hơi của đàn kèn đồng, tiếng va đập và cộng hưởng tưng bừng của bộ gõ và giọng hát tràn đầy sinh lực… Tất cả các nhạc cụ đều thể hiện tính chặt chẽ trong âm thanh. Tính chất này ít nhiều chịu ảnh hưởng của việc cung cấp nguồn điện cho hệ thống có đủ hay không và đáp tuyến tần số trung và trầm của các thiết bị có tác động rất lớn đến cảm giác chặt chẽ của âm thanh. Vậy ý nghĩa của mật độ và sự chặt chẽ trong âm thanh được tái tạo đúng là gì? Đó là việc nó làm cho giọng hát và nhạc cụ phát ra âm thanh trung thực, tiềm tàng nội lực và sáng tạo hơn.
Độ trong trẻo: Nếu như bạn có đôi chút kinh nghiệm, bạn sẽ nhận ra rằng một số dàn máy có âm thanh trong như pha lê, nhưng cũng có dàn máy tiếng rất đục, âm thanh bí, không thoát. Trong trẻo là một yếu tố rất quan trọng đối với âm thanh đẹp. Độ trong trẻo cao của cả dàn máy giúp ta nghe được những chi tiết âm thanh dù rất nhỏ trong bản nhạc, sự trong trẻo còn giúp ta tạo ra âm nhạc mềm mại và dịu êm, không gây mệt mỏi; thiếu độ trong, âm nhạc được tái tạo sẽ mang vẻ nặng nề, tù túng… làm ta nghe không thoải mái, dễ mệt mỏi. Độ trong của âm thanh phụ thuộc nhiều vào khả năng tái tạo dải tần số trung, trung cao và treble trong đáp tuyến tần số. Những thiết bị tác động mạnh nhất đến độ trong trẻo của âm thanh là loa, ampli và dây nối.
Tính sống động: Sự sống động làm bạn cảm thấy nhạc không phải là thứ nhạc giả tạo mà có cảm giác là đang thưởng thức nhạc sống. Nó là một nhân tố rất quan trọng đối với nhạc tính của một dàn máy, sự sống động phụ thuộc nhiều vào chất lượng của từng thiết bị của bộ dàn. Nhìn chung, các thiết bị có khả năng tạo ra âm thanh trong sáng, rõ ràng, mạnh mẽ… thì sẽ tạo được tính sống động cao. Các bộ âm sẽ làm ảnh hưởng tới độ sống động của âm thanh, hồi tiếp âm càng nhiều, độ sống động càng giảm. Chính vì vậy, nhiều hãng trên thế giới hiện nay thiết kế những ampli chất lượng cao thường không hoặc sử dụng rất ít hồi tiếp âm để nâng cao độ sống động và tính trung thực của âm nhạc.
Độ ổn định về không gian của âm thanh: Độ ổn định về không gian là khả năng không bị thay đổi tầng âm, cũng như vị trí các nhạc cụ và giọng hát trong không gian khi có sự di chuyển vị trí ngồi nghe. Các bạn thường thấy nếu ta ngồi nghe ở vị trí trên trục chính giữa hai loa thì có cảm giác âm nhạc phát ra không phải từ hai chiếc loa mà từ “đâu đó” ở khoảng không gian giữa hai loa. Nếu độ hội tụ và ổn định về không gian không tốt sẽ dẫn đến hình ảnh âm thanh bị phá vỡ. Ta sẽ cảm thấy các nhạc cụ và giọng hát “bay” lung tung khắp phòng, làm mất đi sự tập trung chặt chẽ vốn có trong không gian. Một trong những nguyên nhân đầu tiên phá vỡ sự ổn định là do không kiểm soát được âm thanh trực tiếp phát ra từ loa và âm thanh phản xạ từ môi trường nghe (phòng nghe). Các thiết bị của bộ dàn, chất lượng loa, vị trí đặt loa và đặc biệt là kết cấu phòng nghe nhạc ảnh hưởng rất lớn đến tính ổn định của âm thanh. Loa bố trí đứng, phòng nghe được xử lý tiêu âm tốt, hạn chế các sóng phản xạ là những nhân tố quyết định đến độ ổn định, độ nổi của âm thanh.
Độ chi tiết của âm thanh: Thật dễ hiểu, ai đã từng sử dụng máy vi tính hay xem tivi đều sẽ hiểu độ phân giải là gì. Khả năng thể hiện từng chi tiết khác bịêt của mỗi một thiết bị hình ảnh chính là độ nét hay độ phân giải của thiết bị đó.
Tương tự như vậy, khả năng tái hiện cho thấy sự khác biệt rất nhỏ trong âm thanh của từng nhạc cụ trong bản nhạc, dù chỉ là chút ít gọi là độ chi tiết của âm thanh

Tốc độ và đáp ứng quá độ nhất thời: Âm thanh thể hiện sự đáp ứng nhất thời tốt là khả năng tách biệt các nốt nhạc trước và sau một cách dứt khoát không bị “dính” vào với nhau. Tốc độ và khả năng đáp ứng nhất thời của một bộ dàn thể hiện rất rõ ở khu vực tiếng trầm. Nếu không có tốc độ đáp ứng tốt, các tiếng bass sẽ bị “nhòe” vào nhau, tiếng trước chưa dứt thì tiếng sau đã đè lên, làm cho người nghe không phân biệt được từng tiếng bass một cách rõ ràng mà chi nghe thấy một khối âm thanh ầm ì, lẫn lộn. Nhân tố tác động mạnh nhất đến tốc độ và khả năng đáp ứng nhất thời của hệ thống chính là loa. Một cặp loa tốt sẽ tách được các tiếng bass một cách rõ ràng, dù dòng tiếng bass có được chơi rất nhanh. Ngược lại, với những cặp loa subwoofer loại xem phim đem ra để nghe nhạc, bạn sẽ dễ dàng thấy tiếng trầm từ subwoofer như chỉ có mỗi một nốt “ùm, ùm” và tiếng trước “trèo” lên tiếng sau.

Độ tương phản và dải rộng của âm thanh: Độ tương phản về âm lượng là sự so sánh giữa các mức âm lượng phát ra từ một bản nhạc. Chúng ta biết độ tương phản của một bản nhạc cổ điển là rất lớn, có nghĩa rằng mức chênh lệch giữa mức âm mạnh nhất (Fortissino) và yếu nhất (Pianissimo) của cường độ âm thanh là rất đáng kể. Một bộ dàn có dải động tốt sẽ có khả năng tái tạo lại độ tương phản âm thanh là rất đáng kể.. Ngược lại, nếu dải động hẹp, âm nhạc sẽ có vẻ như bị gò bó, không tự nhiên thoải mái.
Tỷ lệ giữa các nhạc cụ và giọng hát: Độ của từng nhạc cụ là bao nhiêu? Giọng hát nên ở mức nào? Điều này luôn là câu hỏi đối với dân nghiền hi-fi. Thật lý tưởng, nếu kích cỡ được thu nhỏ lại bằng tỉ lệ từ sàn diễn đến phòng nghe của chúng ta. Tuy nhiên, điều này không thể xảy ra trên thực tế. Hãy lấy ví dụ, khi một cây đàn piano song đấu cùng với cây violin. Nếu như âm lượng của cây violin không được đẩy lên trong quá trình thu âm, cây violin sẽ bị “chết chìm” trong tiếng đàn piano.
Do vậy khi thu âm, người ta sẽ phải điều chỉnh theo một vài tỷ lệ nhằm thu nhỏ kích cỡ nhạc cụ và âm lượng của giọng hát sao cho phù hợp. Một bộ dàn có âm thanh tốt sẽ thể hiện được đúng những tỷ lệ này, có nghĩa là đem lại một sự hài hoà giữa các nhạc cụ và giọng hát cho người nghe.

Đặc tính của thiết bị và sự phối hợp: Một thiết bị trong bộ phận dàn hi-fi cũng giống như một con người, đều có những “cá tính” riêng. Có thiết bị phát ra âm thanh sôi nổi, thân thiện, đam mê lại có những thiết bị có âm thanh sang trọng, tươi sáng… Do đó, có thể nói, sự phối hợp các thiết bị với nhau giống như cuộc hôn nhân, chúng ta nên hết sức thận trọng nhằm đạt được những đặc tính mình muốn. Đôi khi cần phải phát huy hoặc giảm một vài đặc tính nào đó cho các thiết bị trở nên phù hợp với nhau. Điều quan trọng nhất mà bạn cần nhớ là không phải cứ chọn mua tòan thiết bị đắt tiền rồi ghép với nhau là được một thiết bị hoàn hảo, mà bạn cần phải thực sự trải qua quá trình thí nghiệm phối hợp chúng với nhau một cách đúng đắn mới có thể tìm ra được kết quả tốt nhất.
6 đặc tính quan trọng tạo nên dàn âm thanh chuẩn
Ngoài dải tần đáp ứng hay độ động đã khá quen thuộc với người nghe phổ thông, một dàn âm thanh chuẩn cần nhiều yếu tố đặc trưng khác để tạo nên đẳng cấp và chất lượng.

Dàn loa lớn thường có khả năng thể hiện được âm trầm tốt hơn.
Dải tần đáp ứng
Theo Canadahifi, khả năng tái tạo âm thanh chính xác ở các dải một cách đồng đều, luôn là một trong những yếu tố quan trọng và được biết đến nhiều nhất của hệ thống nghe nhạc. Tuy nhiên, khi xuống đến dải tần cực thấp, các màng loa nhỏ thường không còn đủ độ chắc chắn khi nhận được xung điện lớn để thể hiện âm bass sâu. Hoặc nếu nhận xung phù hợp với màng loa, thì thường không đủ lực.
Một cách đơn giản và trực quan để đánh giá yếu tố này là thử nghe những bản nhạc có dải tần thay đổi đa dạng. Bản thu All For You của Diana Krall, hoặc album Brothers in Arms của Dire Straits đều là các ví dụ điển hình với những tiếng chũm chọe cao chói tai, âm bass mạnh mẽ và xuống đến cực sâu.
Tông nhạc chính xác
Để phân biệt được tiếng guitar nào là của Fender Stratocaster hay Gibson Les Paul, tiếng violon nào là của Amati hay Stradivarius, cần hiểu và nghe được hòa âm đặc trưng của mỗi một nghệ sĩ, hơn là những nốt nhạc cơ bản mà bất kỳ cá nhân nào cũng có thể thực hiện được. Ngoài ra, yếu tố này cũng cần một loa tép thật tốt.
Nếu đó là một giọng hát, người nghe cũng có thể dễ dàng phân biệt được theo thời gian đâu là một nữ ca sĩ trẻ trung 20 tuổi giọng khỏe khoắn, nhiệt huyết, hay một giọng ca 40 tuổi điêu luyện, mặn mà và đằm thắm.

Vị trí của nhạc công và ca sỹ là một đặc trưng của dàn nhạc cổ điển.
Âm trường
Không gian trong âm thanh giữa những người nhạc công hay ca sỹ cũng bao gồm những chiều cơ bản như chiều sâu, chiều rộng và chiều cao (rất khó để đạt được, và chỉ có ở những bộ dàn đầu bảng với mức giá không hề rẻ). Hơn nữa, “hình ảnh” được ghi nhận này phải cố định khi người nghe di chuyển xung quanh phòng nhạc.
Để cảm nhận được âm trường một cách rõ ràng, việc đầu tiên cần làm là tìm một nguồn nhạc stereo chất lượng cao, thậm chí các bản thu đời đầu cũng không thể vẽ ra trường âm thanh ba chiều rõ ràng, ngay cả trên bộ thiết bị đắt tiền nhất. Một ví dụ đơn giản như bản You Oughta Know trong album Jagged Little Pill Acoustic của Alanis Morissette có thể cho người nghe thấy được vị trí của ca sỹ ở ngay bên phải sân khấu, chiếc guitar acoustic bố trí bên trái, trong khi bộ trống được đặt ngay phía sau giọng hát.
Độ phân giải (bit-rate)
Độ phân giải càng lớn, âm thanh càng rõ ràng, chi tiết hơn và cũng dễ dàng hơn cho trí não ghi nhớ/nhận ra âm thanh này. Điều này tương tự với một bức ảnh với độ phân giải thấp rất khó cho người xem nhận biết những chi tiết nhỏ, chẳng hạn thời gian hiển thị trên một mặt đồng hồ hay dòng chữ in trên bìa trong giá sách.
Vấn đề về độ phân giải thấp càng nghiêm trọng khi có nhiều giọng hát hay nhạc cụ kèm theo. Khi đó, giọng ca của từng người trong một dàn hợp xướng sẽ dễ bị nhập làm một, thậm chí giọng chính cũng có thể biến thành tiếng đệm du dương cuốn theo điệu nhạc ở một mức bit-rate quá thấp.


Người nghe thường phải tốn nhiều chi phí để hoàn thiện dải động.
Dải động
Sự khác biệt (được tính bằng đơn vị decibel) giữa mức "output" đỉnh của hệ thống và mức yên tĩnh nhất - tiếng noise âm thanh sàn được xem là dải động của một dàn âm thanh hi-fi. Đây là yếu tố mà người nghe thường phải chi nhiều tiền nhất để có được sự chuẩn xác về âm thanh trên mỗi bước dải tần đáp ứng, ở mỗi mức âm lượng khác nhau.
Bản thu của Zepplin, Since I’ve Been Loving You hay bản giao hưởng số hai của Mahler mang tên Resurrection đều là những ví dụ tốt để thử nghiệm dải động của một dàn âm thanh.
Độ động
Một chi tiết cơ khí như màng loa sau khi đã rung lên, tạo âm thanh, cần có thời gian để phục hồi lại vị trí ban đầu để tiếp tục hoạt động. Quãng thời gian này phải đủ nhanh, nếu không hệ thống sẽ bỏ lỡ một nhịp âm thanh quan trọng. Đây cũng là một yếu tố được xem xét khi đánh giá bất cứ dàn loa hi-fi nào.
Bất kỳ một bản thu nào có tiết tấu cực nhanh cũng có thể là đối tượng để thử nghiệm độ động. Trong đó có thể kể đến Concerto for Orchestra của Bartok, Am I Wrong của Keb Mo hay bản Overture trong album Tommy của The Who.

Ampli bán dẫn

Từ thời những ampli đèn bóng huyền thoại của Leak những năm 1930 đến hôm nay, ampli đèn 3 cực chỉ chạy duy nhất ở class A đầu tiên chỉ có công suất 5 – 7W, tuy nhiên, loa cổ có trở kháng rất cao (thường hơn 1.000 Ohm) còn loa ngày nay trở kháng thường chỉ 4 – 8 Ohm
Ampli bán dẫn bắt đầu phát triển từ cuối thập niên 1960.
Từ thập niên 1960, ampli bán dẫn bắt đầu phát triển mạnh, ampli đèn từ từ lui vào hậu trường. Đến khoảng cuối thập kỷ 1980, sau khi đã trải qua quá trình dài nghiên cứu thử nghiệm, ampli bán dẫn đã định hình rõ nét. Về nguyên lý hoạt động, các ampli bán dẫn ngày nay vẫn giống như các ampli bán dẫn xuất xưởng cách đây 20 năm
Ampli Class A.
Ampli class A có độ méo thấp, cho âm thanh trung thực và tự nhiên.
Nguồn điện cấp trực tiếp và liên tục vào linh kiện khuếch đại, vì vậy, khi chạy sẽ rất nóng vì năng lượng phát sinh lượng nhiệt lớn. Ampli class A thường có bộ cánh tản nhiệt hai bên rất hoành tráng.
Chỉ một linh kiện khuếch đại công suất cho cả hai nửa chu kỳ âm và dương của sóng hình sin, đó là nguyên lý hoạt động của ampli này. Vì bản chất ampli class A là kích hoạt toàn bộ chu kỳ của tín hiệu vào nên tín hiệu đầu ra gần như giống hệt tín hiệu ở đầu vào. Linh kiện khuếch đại cần phải có dòng điện luôn ổn định và rất lớn chạy qua nên mạch điện class A tiêu hao nhiều năng lượng, do đó hiệu suất thông thường chỉ vào khoảng 25%. Tuy nhiên, ampli class A có độ méo rất thấp, âm thanh nghe được ấm áp, trung thực và tự nhiên.
Các nhà sản xuất hi-end ở hàng "ultra hi-end" hiện tại đều chế tạo ampli class A, họ có những cách riêng để tăng hiệu xuất ampli. Tuy rằng ngày nay ampli đèn không còn thịnh hành nhưng chất âm class A của đèn ở thời kỳ vàng công nghệ ghi âm những năm 1960 – 1970, vẫn là mục tiêu của nhiều nhà sản xuất hi-end, vì đó chính là chất âm nguyên thủy của hi-end. Hay đúng hơn hi-end ngày nay kết hợp chất âm đèn với kỹ thuật điện tử hiện đại, cho ra công suất mạnh hơn mà vẫn ngọt ngào, ấm áp.
Ampli Class AB.
Ampli có hiệu suất khá cao và độ méo cũng tương đối thấp.
Đây chính là ampli chiếm đa số trên thị trường hiện tại từ hàng điện tử bình dân đến hi-end tầm trung và cao. Với ampli class AB, hai linh kiện bán dẫn cùng hoạt động, mỗi linh kiện đảm nhiệm nửa chu kỳ sóng sin và lấn sang một chút ở chu kỳ kia, cơ chế này làm giảm độ méo tại điểm giao giữa hai nửa chu kỳ. Vì hiệu suất khá cao và độ méo cũng tương đối thấp nên ampli class AB được rất nhiều nhà sản xuất lựa chọn. Một giải pháp thường dùng là thiên áp sang class A 100% ở một phần công suất nhất định, ví dụ "class AB 100W, 30W ở class A".
Ampli số hay Class D.
Ampli class D bị đánh giá là âm thanh quá thô, thiếu cảm xúc
Loại ampli này xuất hiện từ khoảng nửa sau thập niên 1990. Với ampli class D dùng kỹ thuật điều chế, bóng bán dẫn luôn chỉ ở một trong hai trạng thái đóng (0) hoặc mở (1) trong một chuỗi xung, vì vậy ampli class D hiệu suất rất cao (có thể đạt tới 80%) so với tất cả các ampli khác do năng kượng suy hao rất ít. Với kích thước vừa phải, dòng ampli class D cho ra công suất rất lớn.
Vấn đề còn lại của ampli class D là bản chất hệ nhị phân (binary) không thể tái tạo hết nguyên bản tín hiệu âm thanh. Nhà sản xuất lẫy lừng Bang & Olufsen đã áp dụng rất nhiều nghiên cứu ampli clas D vào sản phẩm của họ. Tuy nhiên, đối với audiophile thì ampli class D bị đánh giá là âm thanh quá thô, thiếu cảm xúc.
Chính vì thế, trong thế giới "đồ chơi cao cấp" này, ampli class D có vẻ như vẫn đang đi những bước đầu tiên. Và cũng cần thêm thời gian nhiều hơn để đánh giá chính xác một cách tổng thể sản phẩm này.

Lịch sử Ampli đèn

TCAD-Năm 1904, bóng đèn 2 cực chân không (diode) đầu tiên ra đời, bắt đầu thời kỳ điện tử học. Hai năm sau, bóng đèn 3 cực (triode) xuất hiện, khởi nguồn cho thời hoàng kim của ampli đèn và các thiết bị sử dụng đèn điện tử khác.
Bóng đèn 2 cực được nhà khoa học Anh John Ambrose Fleming phát minh vào năm 1904 trước. Năm 1906, Lee de Forest sáng chế ra đèn 3 cực, bóng chân không cho phép nhận và khuyếch đại tín hiệu điện tử. Nhưng phải chờ đến những năm 20 của thế kỷ trước, những chiếc ampli đèn đầu tiên mới được bán trên thị trường. Chúng có thiết kế đơn giản song đảm nhiệm chức năng khuếch đại tín hiệu rất thành công. Tất cả các sơ đồ thiết kế chỉ sử dụng một loại đèn duy nhất được sản xuất thời bấy giờ là đèn 3 cực đốt trực tiếp (direct heating triode) và chỉ chạy duy nhất ở class A. Khi ấy, người chơi phải dùng ampli đèn một cách rất cẩn thận vì đèn còn hiếm và giá rất cao
Các ampli cổ đa phần sử dụng biến áp nối tầng (interstage transfomer) để hiệu suất hoạt động của đèn đạt được mức cao nhất. Thời đó tầng công suất không phải lúc nào cũng đòi hỏi phải có biến áp bởi vì một số loa cổ có trở kháng rất cao (hơn 2.000 ohm, trong khi ngày nay, đa số đều từ 4-8 ohm) và các loa đời cổ có thể nối trực tiếp với anode của đèn qua một tụ đầu to khổng lồ.
Những bóng đèn đời đầu có độ khuếch đại và công suất khá hạn chế.
Tuy nhiên, sự phát triển của công nghệ chế tạo đèn đã nhanh chóng biến ampli trio trở thành những thiết bị thân thiện và ngày càng mạnh hơn, dễ sử dụng hơn. Tính chất phức tạp của các mạch điện cũng bắt đầu tăng dần. Việc phát minh ra kỹ thuật hồi tiếp âm (negative feedback) của Harold Black vào năm 1927 đã hình thành nên các mạch điện tinh vi với khả năng giảm độ méo trong ampli xuống đáng kể. Một phát minh khác có ảnh hưởng quan trọng đến thiết kế ampli đèn là mạch đẩy kéo (push - pull) ở tầng công suất, tức là mô hình có hai đèn công suất thay nhau mở và tắt giúp tăng cường hiệu suất của tầng ra, cho phép chế tạo ampli công suất cao hơn một cách dễ dàng. Điều ngạc nhiên là mạch đẩy kéo ra đời vào năm 1916 nhưng mãi gần hai thập kỷ sau nó mới thực sự đi vào cuộc sống.
Đầu những năm 30, khi các ampli điện tử, máy hát, tuner đèn … ngày càng được cải tiến và nâng cao độ trung thực thì thú chơi ampli đèn bắt đầu nở rộ. Những thùng loa chất lượng cao đầu tiên ra đời, trong đó sử dụng các loa của nhiều hãng danh tiếng như: Altec Lansing, Jensen, Lowther… Thiết bị âm thanh thời đó đều cực đắt nếu so sánh với các tiêu chuẩn ngày nay nên những sản phẩm tốt chỉ thuộc về những người giàu có và thực sự đam mê âm thanh. Bán chạy nhất khi ấy là các bộ ampli và loa cùng với các cuốn sách trình bày chi tiết về các thiết kế này. Chúng đã góp phần tạo nên nhiều đêm trình diễn thú vị tại gia cho người yêu nhạc trước khi truyền hình đến với mọi nhà.
Những năm 30-50 là thời gian diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới nên các bước tiến của kỹ thuật âm thanh gia đình đã bị cản trở. Song phần lớn những hãng sản xuất đồ âm thanh nổi tiếng đều đánh dấu sự ra đời của mình trong chính thời kỳ này. Tiêu biểu là hãng Leak, Quad (Anh) và Dynaco, Mcintosh (Mỹ). Giữa thập kỷ 30, Leak đã chế tạo loại ampli với mục tiêu theo đuổi là có độ méo cực nhỏ (khoảng 0,1% theo quan niệm thời đó).
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, những ampli như vậy ra đời nhờ sử dụng công nghệ phát triển cho các ứng dụng quân sự trong thời chiến. Thực ra, độ méo tiếng của ampli chỉ có thể đạt khoảng 0,1% ở phần trung âm với công suất trung bình và một bộ đèn thật tốt. Nhưng cuộc chạy đua để đạt được con số gần không vẫn chẳng hề chấm dứt. Và ampli của Leak luôn tiêu biểu cho sự trình diễn trung thực, cho đến nay, nó vẫn được nhiều người ưa chuộng
Giống như Leak, hãng Quad cũng khởi đầu sự nghiệp với các ampli phát thanh đại chúng, nhưng hãng bắt đầu nổi tiếng với ampli Quad II vào năm 1952. Ampli công suất mono 15 W này được thiết kế trong một khung gọn nhỏ, và hãng đã bán được gần 100.000 chiếc trong vòng hai mươi năm sau đó. Cũng trong thập kỷ 50, Dynaco và Mcintosh bắt tay sản xuất ampli công suất lớn. Cả bốn hãng trên đều luôn dẫn đầu trong các cuộc thử nghiệm kiểm tra sản phẩm ampli đẩy kéo thời bấy giờ.
Có lẽ mạch điện để lại nhiều ấn tượng nhất cho dân chơi ampli đèn thời kỳ 1950 là mạch “Unity Coupled” của Mcintosh. Mạch này sử dụng bộ biến áp xuất âm khá phức tạp với các cuộn dây tách biệt cho cathode và anode của các đèn xuất âm. Kết quả là ampli Mcintosh sử dụng mạch này trình diễn rất trung thực và chúng trở thành những “nhân vật chủ lực” trong các phòng kiểm tra thiết bị điện tử và trong các hệ thống âm thanh hi-fi. Đến cuối những năm 50, đầu 60, các ampli dùng transitor gọn nhẹ xuất hiện và những chiếc đèn vừa to, vừa nóng, lại hoạt động kém hiệu quả đã dần bị lãng quên trên thị trường đại chúng.
Nhưng vẫn có nhiều nhà sản xuất khẳng định khả năng của đèn khi nó còn có một số thế mạnh và transistor chưa thể cạnh tranh được. Nhiều hãng sản xuất đồ hi-end lớn nhỏ đã tiếp tục sản xuất ampli đèn nhiều năm sau khi transitor ra đời. Vào thập kỷ 70, Jean Hiraga, người tiên phong trong phong trào hi-fi của nước Pháp, là người đầu tiên tuyên bố hoàn toàn tin tưởng chất lượng âm thanh của ampli đèn cao hơn hẳn ampli bán dẫn.
Trong số các hãng kỳ cựu còn tồn tại từ nhứng năm 1970, 1980 cho đến nay có các tên tuổi như Audio Research, EAR, Jadis, Conrad Johnson, Audio Note và VTL. Hiện các hãng này đều đang hoạt động cùng với vô số các nhà sản xuất ampli đèn khác với nhiều hướng thiết kế rất đa dạng. Đáng chú ý là loại ampli single-end nổi tiếng hiện được chế tạo khá nhiều. Nó thể hiện sự trở lại của các thiết kế ra đời những năm 20, 30 với kiểu đèn sợi đốt trực tiếp, không có mạch hồi tiếp, có nhiều biến áp các loại, công suất thấp, độ méo cao. Nhưng âm thanh của dòng ampli này thực sự gây ấn tượng.
Bên cạnh các mạch ampli đèn truyền thống với lịch sử non thế kỷ vẫn được dùng trong các ampli đời mới, trong thời gian qua, thế giới âm thanh còn được chứng kiến một số mạch điện rất mới lạ. Mạch “Enhanced Triode Mode” của Tim de Paravicini là một ví dụ. Lấy cảm hứng từ sản phẩm của Mcintosh, ông đã sáng tạo ra một số mô hình mạch điện rất thú vị. Kỹ sự William Z Johnson ở hãng Audio Rearch là một trong những người đi đầu trong lĩnh vực ampli phối hợp giữa mạch đèn và bán dẫn phức tạp. Hướng thiết kế của ông là duy trì điều kiện hoạt động lý tưởng cho đèn để nó phát huy hết thế mạnh của mình.
Đa số các nhà sản xuất khác cũng đi sâu vào cách kết hợp giữa đèn và bán dẫn. Một số hãng như Futterman và gần đây là Graaf và Atmashere thì rất dũng cảm khi chế tạo dòng ampli không cần biến áp xuất âm (OTL). Chắc chắn ampli đèn sẽ đồng hành với chúng ta trong một thời gian khá dài nữa. Nguồn đèn đang trở thành một vấn đề đáng quan tâm nhưng vẫn có khá nhiều hãng tiếp tục sản xuất đèn, và người này phát minh ra loại đèn nào thì người khác sẽ copy. Ai đó có thể cho rằng đèn đã chết nhưng âm thanh, diện mạo của ampli đèn cùng niềm vui sướng của chủ nhân những chiếc ampli đó sẽ mãi lấp lánh cùng thời gian.

Nguồn điện trong âm thanh

Nguồn điện là thiết bị ít khi được dân chơi âm thanh quan tâm, nhưng trong thực tế, nguồn điện có tầm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng âm thanh, hình ảnh của một hệ thống. Các thiết bị âm thanh dù có cao cấp thế nào mà nguồn điện ổn áp sơ sài thì khả năng trình diễn cũng bị giảm đi nhiều.
Nguồn điện lưới từ các nhà máy phát điện truyền tải qua các trạm biến thế (tăng thế, giảm thế) mới đến các hộ sử dụng. Do mạng lưới điện hiện chưa ổn định nên thường có hiện tượng nhiễu điện, hiệu điện thế không đủ 220 V, dòng điện tăng giảm đột ngột. Việc này sẽ làm công suất ampli giảm, làm ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh và gây méo tiếng, làm hệ thống trình diễn kém linh hoạt. Ngoài ra, hiện tượng này còn làm giảm tuổi thọ của thiết bị
Việc đầu tư một lọc điện power conditioner là điều cần thiết để đảm bảo trình diễn của hệ thống âm thanh không bị gián đoạn và đạt hiệu quả tốt nhất. Không những vậy, dây tín hiệu phải có chất lượng tốt để giữ được sắc thái từ nguồn đến ampli rồi ra loa. Đồng thời, cũng phải có cáp nguồn chuyên dùng với phích cắm ba chân chất lượng tốt, tránh việc tiếp xúc không chặt giữa đầu cắm với phích cắm dẫn đến hiện tượng phóng tia lửa điện hay phích cắm bị chảy nhựa.
Bộ lọc điện Accuphase Clean Power Supply PS-1200 được giới chơi âm thanh đánh giá khá cao. Bề ngoài PS-1200 có hình dáng của một chiếc Power bán dẫn thực thụ. Thân máy to dày, rất ấn tượng với màu vàng champagne đặc trưng của Accuphase. Công tắc nguồn thiết kế đơn giản phía trước và một đồng hồ tròn mặt trắng mạ vàng đặt ở giữa máy. Bên phải là một núm điều khiển xoay theo từng nấc, nút dày dùng để thay đổi chức năng hiển thị của đồng hồ mặt máy.
Đồng hồ có thể hiển thị ở 5 dạng: công suất tiêu thụ, hiệu điện thế đầu vào, hiệu điện thế đầu ra, méo và nhiễu của dòng điện nguồn, méo và nhiễu của dòng điện sau khi được lọc bởi PS-1200 . Trong các dạng trên, hiển thị công suất tiêu thụ giúp hiển thị công suất tiêu thụ rõ ràng khi tăng giảm volume hay trong từng đoạn nhạc khác nhau trong một bài hát. Khi công suất tiêu thụ vượt ngưỡng cho phép, đèn đồng hồ sẽ sáng rực để cảnh báo.
Accuphase Clean Power Supply PS-1200.
PS-1200 cung cấp nguồn năng lượng 1.500 VA cho 7 đầu cắm (2 đầu mặt trước, 5 đầu mặt sau). Bên trong PS-1200 là một biến thế tròn cực lớn và 4 tụ điện cũng khá lớn, chiếm gần hết ruột máy. Phần còn lại là bộ cánh giải nhiệt cho 40 sò (20 sò ở mặt trên và 20 con ở mặt dưới máy). Power Conditioner PS-1200 sử dụng kỹ thuật "nắn" sóng điện Waveform Shaping Technology giúp tạo độ ổn định cho nguồn điện. Sóng điện của nguồn xoay chiều AC qua các mạch điện tích cực sẽ được nắn lại thành sóng hình sin trợn tru không nhiễu và hoàn toàn ổn định. Tầng Output của PS-1200 sử dụng những bán dẫn (sò) chịu được dòng điện khá cao lên đến 15A. 40 bán dẫn này kết nối thành 20 cặp song song kiểu đẩy kéo tạo nên một dòng điện mạnh và hoàn hảo.
Các thiết bị được nối với PS-1200 được đảm bảo nguồn cung cấp một cách tốt nhất. Khi có các sự cố về điện xảy ra, rơ-le tự động được tích hợp trong công tắc nguồn sẽ đóng tắt ngay lập tức. Ngoài ra, khi nhiệt độ bên trong của biến thế vượt quá 110 độ C, công tắc nguồn cũng tự động đóng tắt. Biến thế này cũng đóng vai trò quan trọng trong lọc điện. Các biến thế thông thường có hình vuông, trong khi đó, biến thế của PS-1200 có hình xuyến, bên trong sử dụng dây đồng cỡ lớn cho ra một dòng điện đạt hiệu suất cao và trở kháng nguồn thấp.



http://thuanloipho.com/index.php?mod=forum_detail&topic_id=1821

MẸO HAY TỪ VỎ CHUỐI

1. Đánh bóng giày
Những đôi giày lâu ngày không đi, hoặc đi nhiều khiến bụi bẩn mất đi độ sáng bóng vốn có của nó, thật đơn giản hãy làm mới đôi giày bằng chính vỏ chuối mà bạn định vứt đi. Lấy phần bên trong của quả chuối chà nhẹ lên giày để 1 lát rồi lau lại bằng vải sạch, chắc chắn giày của bạn sẽ sáng bóng trở lại.
2. Làm trắng răng
Táo là loại trái cây làm trắng răng hiệu quả, nhưng còn có một loại trái cây gần gũi hơn cũng có công dụng không kém là quả chuối. Chuối chín có màu vàng nhưng thật đáng ngạc nhiên nó có thể làm trắng màu răng vàng của bạn. Hơn thế cách này rất an toàn vì vỏ chuối có chứa nhiều vitamin và khoáng chất, không chứa những chất mài mòn như sản phẩm làm trắng răng công nghiệp.


Bạn nên tận dụng vỏ chuối nếu muốn hàm răng của mình sáng lấp lánh.
Bạn có thể áp dụng cách này trước hoặc sau khi đánh răng. Chà vỏ chuối theo chiều kim đồng hồ lên hàm răng của bạn mỗi ngày trong ít nhất 2 đến 3 phút. Sau một vài tuần hay một vài tháng bạn sẽ thấy hiệu quả với một hàm răng trắng sáng lấp lánh. Cách làm này rất dễ thực hiện lại tận dụng được vỏ chuối không dùng.
3. Giảm ngứa, sưng phồng do muỗi đốt
Nếu bạn đang ở nhà mà bị muỗi đốt hoặc côn trùng cắn, nếu không có thuốc kem trị côn trùng cắn thì hãy ngay lập tức kiếm một quả chuối, sử dụng phần bên trong của vỏ chuối chà vào vết cắn sẽ giúp vết muỗi cắn đỡ ngứa và sưng hiệu quả. Bạn hãy thử làm xem nhé, hiệu quả lắm đấy.
4. Loại bỏ những cái mụn cóc, mụn cơm đáng ghét
Vỏ chuối là "sát thủ" đánh bay những chiếc mụn cóc đáng ghét.
Bỗng một buổi sáng thức dậy bạn phát hiện trên mặt có một cái mụn thật đáng ghét, đừng vội lo lắng, hãy nhanh chóng kiếm một quả chuối, bóc lấy vỏ và chà xát phần mặt bên trong của vỏ chuối lên phần mụn cóc,mụn cơm rồi cắt một lát chuối đắp vào mụn, dùng vải sạch băng một  lại, làm liên tục trong vài ngày, mụn sẽ biến mất.
5. Làm chín hoa quả nhanh
Có thể để vỏ chuối với những quả muốn chín nhanh hơn như xoài, kiwi… Chúng sẽ chín nhanh hơn bạn tưởng đấy.
6. Trợ thủ đắc lực cho hoa lan
Nếu muốn hoa lan nở đẹp và lâu, bạn có thể chôn vỏ chuối trong chậu hoa phong lan. Vỏ chuối giàu magnesium, lưu huỳnh, phốt pho, kẽm, khoáng chất, amino axit và các chất dinh dưỡng khác, và đó chính là những thứ phong lan cần.

Trong vỏ chuối có nhiều dưỡng chất giúp hoa lan lâu tàn.
7. Vãn hồi băng đĩa bị trầy xước nhẹ
Với những băng đĩa bị trầy xước nhẹ,bạn cũng có thể thực hiện cách làm đơn giản sau:  Chà chuối đã bóc vỏ vào đĩa, sau đó chà xát phần bên trong của vỏ chuối lên trên bề mặt của đĩa. Rửa sạch lại đĩa với nước, sau đó đánh bóng bằng vải và để đĩa khô.
8. Làm sạch cây trồng trong nhà
Cây cảnh trong nhà dễ bắt bụi. Tưới nước chỉ khiến bụi bẩn bám chắc hơn. Bạn có thể làm một cách cực đơn giản là lấy vỏ chuối lau lá cây để loại bỏ chất bẩn. Cây của bạn trông sạch sẽ và khỏe mạnh hơn.
Cây cối trong nhà cũng trở nên khỏe mạnh hơn chỉ với vỏ quả chuối.
9. Giải pháp diệt rệp hiệu quả
Rệp tấn công vào các loại hoa, cây cảnh của bạn thật sự là vấn đề nhức đầu. Bạn không thể dùng các loại thuốc diệt nhất là khi gia đình có con nhỏ. Thay vào đó hãy cắt một loạt vỏ chuối, chôn chúng cách vị trí đặt cây từ 3 đến 5cm. Rệp sẽ sớm nói lời tạm biệt. Thêm một mẹo nữa là không bao giờ sử dụng cả quả chuối vì các loài động vật hay vi sinh vật sẽ đào lên và ăn mất, chỉ dùng vỏ chuối thôi.
10. Làm nước trong sạch hơn
Vỏ chuối thực sự có tác dụng tốt trong việc hấp thụ các chất độc trong nước. Theo nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy sử dụng vỏ chuối ngâm trong ao hồ bị nhiễm độc sẽ có tác dụng làm cho nguồn nước ở những nơi này giảm độc và trong lành trở lại.

Vỏ chuối giúp hấp thụ những chất độc trong nước.
Những bà nội trợ thông minh sẽ không bao giờ thiếu chuối trong sinh hoạt hằng ngày. Ngoài để ăn như một loại hoa quả sạch, giàu chất dinh dưỡng, hãy biến hóa chuối và vỏ chuối thành những trợ thủ đắc lực cho việc làm đẹp của bản thân, làm sạch đồ dùng trong gia đình... Nhờ những mẹo trên, bạn đã tiết kiệm được một khoản tiền kha khá đó.

http://vn.nang.yahoo.com/m%E1%BA%B9o-hay-t%E1%BB%AB-v%E1%BB%8F-chu%E1%BB%91i-025047504.html

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Tape Cassette Collection By thienlongtu

001. Asia CS03 : Dạ Vũ Xanh [WAV] {Tape}
002. Asia CS05 : Dạ Vũ Tím [WAV] {Tape}
003. Asia CS07 : Dạ Vũ Vàng [WAV] {Tape}
004. Asia CS10 : Dạ Vũ Trắng [WAV] {Tape}
005. Asia CS17: Various Artists - Đêm Thánh [WAV] {Tape}
006. Asia CS18 : Dạ Vũ Đỏ [WAV] {Tape}
007. Asia CS34 : Dạ Vũ Đen [WAV] {Tape}
008. Dạ Lan CS51: Dạ Vũ Nhớ [WAV] {Tape}
009. Dạ Lan CS53 - Dạ Vũ Nhung [WAV] {Tape}
010. Giáng Ngọc CS05: Dạ Vũ Giáng Ngọc [WAV] {Tape}
011. Dạ Lan CS: Trà My 3 - Paris Đêm Hoa Đăng [WAV] {Tape}
012. Dạ Lan CS30: Dạ Lan 30 - New Wave [WAV] {Tape}
013. Dạ Lan CS52: Hỏi Huế Có Thường Không [WAV] {Tape}
014. Jo Marcel CS03: Jo Marcel 3 - 70 87 (1986) [WAV] {Tape}
015. Jo Marcel CS04: Jo Marcel 4 - Nhạc Trẻ 60 [WAV] {Tape}
016. Giáng Ngọc CS07: Giáng Ngọc 7 - Nhạc Trẻ 2 [WAV] {Tape}
017. Giáng Ngọc CS12: Thanh Tuyền 6 - Tình Qua Cơn Đau [WAV] {Tape}
018. Giáng Ngọc CS30: Various Artists - Tình Khúc Lính 2 [WAV] {Tape}
019. Giáng Ngọc CS47: Hương Lan, Giao Linh, Thiên Trang - Hồn Trinh Nữ 2 [WAV] {Tape}
020. Giáng Ngọc CS50: Various Artists - Cay Đắng Bờ Môi [WAV] {Tape}
021. Thanh Lan CS27: Thanh Nhàn - Gọi Người Yêu Dấu [WAV] {Tape}
022. Thanh Lan CS45: Single Artists - Tiếng hát Hải Lý [WAV] {Tape}
023. Thanh Lan CS89: Tùng Giang Nhạc Khiêu Vũ II - Bóng Chiều Xưa [WAV] {Tape}
024. Thanh Lan CS99: Various Artists - Kể Từ Đêm Đó [WAV] {Tape}
025. Thanh Lan CS103: Various Artists - Cho Người Tình Nhỏ [WAV] {Tape}
026. Thanh Lan CS122: Various Artists - Đường Vào Tình Sử [WAV] {Tape}
027. Thanh Lan CS124: Various Artists - 4 Nụ Hôn Đầu [WAV] {Tape}
028. Thanh Lan CS: Phượng Nga 1 - Chút Tình Cho Quê Hương [WAV] {Tape}
029. Thanh Lan CS: Phượng Nga 2 - Chút Thương Cho Người Việt Tha Hương [WAV] {Tape}
030. Trường Hải CS: Trường Hải 17 - Hồn Bướm Mơ Tiên (1987) [WAV] {Tape}
031. HTTCS: Hoàng Thi Thơ 3 - Đưa Em Qua Cánh Đồng Vàng [WAV] {Tape}
032. HOCS05: Băng Thơ Hoàng Oanh 5 - Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau [WAV] {Tape}
033. Sóng Nhạc CS: Thanh Tuyền 1 - Tiếng Hát Thanh Tuyền [WAV] {Tape}
034. Sóng Nhạc CS: Tiếng Hát Thanh Thúy 6 [WAV] {Tape}
035. Sơn Ca CS04 : Nhạc Tuyển - Đưa Em Vào Hạ [WAV] {Tape}
036. Phương Nam Film: Nhạc Sĩ Vũ Hoàng - Cho Hương Đừng Bay Đi [WAV] {Tape}
037. Dihavina CS: Ca Khúc Võ Tá Hân 1 - Dẫu Ngày Xưa Rất Xưa [WAV] {Tape}
038. Dạ Lan CS06: Hoa Nở Về Đêm [WAV] {Tape}
039. Giáng Ngọc CS67: Nhạc Tình Mùa Thu [WAV] {Tape}
040. Trường Sơn CS9: Nhạc Tuyển Chọn [WAV] {Tape}
041. Dạ Lan CS56: Biển Khơi Niềm Nhớ [WAV] {Tape}
042. Tiếng Hát Thanh Tuyền 8 - Tình Khúc Trần Thiện Thanh [WAV] {Tape}
043. Băng Nhạc Thanh Tuyền 3 - Thuyền Không Bến Đỗ [WAV] {Tape}
044. Sơn Ca 7 Nhạc Tuyển - Liên Khúc Tình CA 2 [WAV] {Tape}
045. Dạ Lan CS47: Tiếng Hát Hải Lý - Mắt Biếc [WAV] {Tape}
046. Băng Nhạc Thanh Thúy 1 (1971) [WAV] {Tape}
047. Trường Sơn Tape: Băng Nhạc Trường Sơn 4 [WAV] {Tape}
048. Tình Ca Luân Vũ 2 - Ánh Đèn Mầu [WAV] {Tape - Cassette}
049. Quê Mẹ 1 - Trường Cũ Tình Xưa (1984) [WAV] {Tape - Cassette}
050. AsiaCS06: Various Artists - Tình Khúc Sélection [WAV] {Tape}
051. Thanh Thúy CS03: Various Artists - Tình Buồn [WAV] {Tape}
052. Họa Mi 2 : Various Artists - Nhạc Yêu Cầu Thời Trang (1974) [WAV] {Tape}
053. Hoàng Trọng: Tiếng Hát Thanh Lan - Hải Ngoại 2 (1992) [WAV] {Tape}
054. Nhạc Vàng 1: Various Artists - Đại Hội Kích Ðộng Nhạc [WAV] {Tape}
055. Uyên Phương CS41: Single - Tiếng Hát Uyên Phương (1981) [WAV] {Tape}
056. Dạ Lan CS07: Chương Trình Nhạc Trẻ - Hạnh Phúc Lang Thang (1984) [WAV] {Tape}
057. Dạ Lan CS13: Dạ Lan Nghệ Thuật - Đôi Bóng (1984) [WAV] {Tape}
058. Dạ Lan CS15: Various Artists - Hồi Tưởng (1985) [WAV] {Tape}
059. Asia CS25: Top Ten '87 - Những Tình Khúc Tuyệt Vời Nhất năm 1987 [WAV] {Tape}
060. Asia CS28: Tiếng Hát Ngọc Hương - Who's That Girl (1987) [WAV] {Tape}
061. Carol Kim CS02: Various Artists - Đừng Bỏ Em Một Mình [WAV] {Tape}
062. Dạ Lan CS01: Various Artists - Như Một Nụ Hồng [WAV] {Tape}
063. Dạ Lan CS02: Various Artists - Như Giọt Sương Mai (1983) [WAV] {Tape}
064. Dạ Lan CS03: Various Artists - Hoa Trinh Nữ [WAV] {Tape}
065. Dạ Lan CS04: Various Artists - Biệt Kinh Kỳ [WAV] {Tape}
066. Dạ Lan CS05: Various Artists - Nét Son Buồn (1984) [WAV] {Tape}
067. Dạ Lan CS49: Đức Huy 10 Tác Phẩm Để Đời - Em! [WAV] {Tape}
068. Dạ Lan CS11: Hoàng Minh 1 - Mưa Đầu Mùa [WAV] {Tape}
069. Dạ Lan CS16: Various Artists - Đã Mười Năm Qua [WAV] {Tape}
070. Dạ Lan CS21: Various Artists - Dạ Vũ - Gọi Tên Bốn Mùa (1986) [WAV] {Tape}
071. Dạ Lan CS41: Various Artists - Tango, Chachcha [WAV] {Tape}
072. Dạ Lan CS08: Various Artists - Thuyền Viễn Xứ [WAV] {Tape}
073. Dạ Lan CS09: Tình Ca - Nhạc Thời Chiến [WAV] {Tape}
074. Dạ Lan CS10: Mạc Phong Linh1 - Ngày Đó Xa Rồi [WAV] {Tape}
075. Dạ Lan CS14: Various Artists - Phượng Yêu [WAV] {Tape}
076. Dạ Lan CS18: Various Artists - Cỏ Hoa (1985) [WAV] {Tape}
077. Dạ Lan CS19: Various Artists - Dáng Xưa [WAV] {Tape}
078. Dạ Lan CS20: Various Artists - Nhạc Vàng [WAV] {Tape}
079. Dạ Lan CS36: Việt Nam Quê Hương Ngày Em Lớn [WAV] {Tape}
080. Dạ Lan CS42: Various Artists - Cổng Trường Vôi Tím [WAV] {Tape}
081. Giáng Ngọc CS54: Various Artists - Tiếng Hát Khói Sương [WAV] {Tape}
082. Giáng Ngọc CS58: Tiếng Hát Lệ Thu - Thuyền Viễn Xứ (1988) [WAV] {Tape}
083. Dạ Lan CS: Trà My 2 - Dạ Vũ Ngọc Ngà [WAV] {Tape}
084. Sóng Nhạc: Tơ Vàng - Lê Uyên Phương - Yêu Nhau Khi Còn Thơ (Pre 75) [WAV] {Tape}
085. Sóng Nhạc: Phạm Mạnh Cương 15 - Nghệ Sĩ Với Cây Đàn (Pre 75) [WAV] {Tape}
086. Thanh Lan: Phạm Mạnh Cương 19 - Quê Hương Và Lòng Mẹ (Pre 75) [WAV] {Tape}
087. Sóng Nhạc: Various Artists - Nhạc Trẻ 2 - Pre 75 [WAV] {Tape}
088. Thanh Lan: Nhạc Trẻ 3 - The Godfather (Pre 1975) [WAV] {Tape}
089. Thanh Lan CS: Băng Vàng - Nhạc Trẻ 8 (Pre 1975) [WAV] {Tape}
090. Thanh Lan CS97: Kim Anh, Tuấn Anh - Đừng Yêu Tôi [WAV] {Tape}
091. Thanh Lan CS: Tiếng Hát Mai Lệ Huyền - Điệu Ru Nước Mắt (Pre 1975) [WAV] {Tape}
092. Làng Văn CS58: Various Artists - Cõi Buồn [WAV] {Tape}
093. Làng Văn CS133: Tiếng Hát Ngọc Lan - Cô Bé Xinh Đẹp (1989) [WAV] {Tape}
094. Tiểu Thuyết Tuần San: Cindy Thủy - Tình Hờ [WAV] {Tape}
095. Giáng Ngọc CS32: Tiếng Hát Thúy Vi - Heart Flash Tonight [WAV] {Tape}
096. Đời CS51: Tiếng Hát Châu Đình An - Em Về Với Người [WAV] {Tape}
097. Đời CS80: Various Artists - Tình Ca Muôn Thuở [WAV] {Tape}
098. CDA Production: Khánh Ly & Châu Đình An - Bông Bưởi Chiều Xưa [WAV] {Tape}
099. Huy Sinh CS1: Tiếng Hát Huy Sinh - Chiều Thu Ấy (1986) [WAV] {Tape}
100. Dạ Lan CS12: Mạnh Quỳnh 1 - Xa Vắng [WAV] {Cassette}
101. Dạ Lan CS24: VA - Nhạc Phim Bộ Chọn Loc 2 [WAV] {Tape}
102. Khúc Lan CS: Khúc Lan, Juile, Duy Quang - 10 Tình Khúc Khúc Lan [WAV] {Tape}
103. Nhã Ca 6: Various Artists - Bebop Chachacha Collection (1992) [Wav] {Tape}
104.Sóng Nhạc: Băng Nhạc Nhã Ca 6 - Hương Yêu (Pre 1975) [Wav] {Tape}
105. Dihavina Cassette: Tình Khúc Phú Quang - Mùa Hạ Còn Đâu [WAV] {Tape}
106. Dihavina Cassette: Lê Dung - Mưa Trên Biển Vắng [WAV] {Tape}
107. Saigon AV Cassette: Nhớ Quê Hương (1993) [WAV] {Tape}
108. Saigon AV Cassette: TK Trần Long Ẩn - Tình Yêu Là Chiếc Bóng [WAV] {Tape}
109. Vafaco Cassette: NS Phan Huỳnh Điểu - Ở Hai Đầu Nỗi Nhớ [WAV] {Tape}
110. Saigon AV Cassette: Various Artists - Bóng Chiều Xưa (1993) [WAV] {Tape}
111. Phương Nam Phim CS: Giọt Mưa Thu [WAV] {Tape}
112. Sơn Ca CS05: Various Artists - Khói Lam Chiều [WAV] {Tape}
113. Nhã Ca 5: Various Artists - Ý Nhạc Tình Thơ [WAV] {Tape}
114. Thanh Lan CS102: Various Artists - Ngút Ngàn Thương Nhớ [WAV] {Tape}
115. Song Ngọc: Various Artists - Tình Ca Hai Mươi (Pre 1975) [WAV] {Tape}
116. Minh Cường CS: Various Artists - Tình Ca Luân Vũ [WAV] {Tape}
117. Hương Xưa CS18: Various Artists - Quê Hương Trong Tiếng Hát (1987) [WAV] {Tape}
118. Nguyên Thảo 1: Various Artists - Mai Đây Hòa Bình (Pre 1975) {WAV] {Tape-Reel}
119. Nguyên Thảo 2: Various Artists - Không Chủ Đề (Pre 1975) {WAV] {Tape-Reel}
120. Nguyên Thảo 3: Various Artists - Không Chủ Đề (Pre 1975) {WAV] {Tape-Reel}
121. Băng nhạc ANH VIỆT THU 1: Đừng Nói Xa Nhau - Đường Chân Trời (1972) [WAV] {Tape}
122. Phạm Mạnh Cương 17: Various Artists - Những Khúc Tình Ca Xứ Huế (Pre 1975) [WAV] {Tape-Reel}
123. Phạm Mạnh Cương 4 - Tú Quỳnh Nhạc Tuyển 4 (Pre 1975) [WAV] {Tape}
124. Băng Nhạc Trầm Tử Thiêng: Various Artists - Hãy Hát Lên Tuổi Thơ (1975) [WAV] {Tape-Reel}




http://www.hdvietnam.com/diendan/183-nhac-viet-nam/612005-tape-cassette-collection-thienlongtu-wav.html 

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

TỜ 100 USD MỚI BẮT ĐẦU LƯU HÀNH TỪ NGÀY 8/10/2013

(NDH) Để ngăn chặn nạn làm tiền giả, tờ 100 đôla mới của Mỹ được thiết kế lại với các đặc điểm an ninh nâng cao và dự kiến sẽ bắt đầu được lưu hành từ ngày 8/10/2013. 

Tờ 100 USD mới
Tờ 100 USD mới có rất nhiều tính năng đặc biệt. Đây là kết quả của quá trình nghiên cứu và thiết kế dài cả thập kỷ. Tiền mới được áp dụng công nghệ bảo mật tiên tiến để chống làm giả. Đồng tiền này có 2 đặc điểm bảo an mới, đó là dải bảo an 3D và lọ mực có in hình chiếc chuông.
Dây an ninh 3-D

Hãy tìm dây an ninh màu xanh ở mặt trước của tờ 100 đô la với hình ảnh những cái chuông và những con số 100. Trao nghiêng tờ tiền về phía sau và phía trước khi xem dây an ninh. Những chiếc chuông đổi thành những con số 100 khi chúng di chuyển. Nếu trao nghiêng tờ tiền về phía trước và phía sau, những chiếc chuông và những con số 100 sẽ di chuyển lên trên và xuống dưới. Nếu trao nghiêng tờ tiền sang hai bên, chúng sẽ di chuyển về phía trước và phía sau.
Dây an ninh được đan bên trong tờ tiền, chứ không được in và sử dụng vi công nghệ tiên tiến. Có gần một triệu vi thấu kính được sử dụng để tạo ảo giác về những chiếc chuông và những con số 100 đang chuyển động.
Chuông trong lọ mực
Tìm hình ảnh của một chiếc chuông đặt trong một lọ mực màu đồng ở mặt trước tờ 100 đô la mới. Tùy thuộc vào góc của tờ tiền, hình ảnh chiếc chuông đổi màu từ màu đồng sang màu xanh, đây là hiệu ứng làm cho chiếc chuông như hiện rồi lại ẩn trong lọ mực.
Bên cạnh hai đặc điểm bảo an mới này, 3 đặc điểm bảo an hiệu quả cao của thiết kế cũ vẫn được làm nổi bật và duy trì trong thiết kế mới: bóng chìm chân dung, đường chỉ bảo an, và số 100 đổi màu.
Chính phủ Mỹ cũng cho biết, khi tờ 100 đô la mới được phát hành, mọi người không cần phải đổi tờ tiền cũ sang tiền mới. Toàn bộ các tờ tiền Mỹ là hợp pháp bất kể nó được phát hành khi nào.
Linh Lam-NDH 

 

http://ndh.vn/to-100-usd-moi-bat-dau-luu-hanh-tu-ngay-8-10-2013-20130918103131664p124c129.news